Tam Tổ Trúc Lâm gồm những ai? Sơ lược về ba vị Tổ Thiền Phái Trúc Lâm

Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, triều đại Nhà Trần được coi là một trong những thời kỳ thịnh vượng nhất. Trong giai đoạn này, Phật giáo đã trở nên phát triển mạnh mẽ và có ảnh hưởng sâu rộng đến mọi lĩnh vực của xã hội. Đặc biệt, vào thời kỳ này, một dòng phái thiền đầu tiên của người Việt đã được thành lập, đó chính là Thiền phái Trúc Lâm. Mặc dù tồn tại trong thời gian không dài nhưng Thiền phái Trúc Lâm đã để lại những dấu ấn đáng chú ý trong lịch sử Phật giáo Việt Nam. Trong bài viết này, Phúc Lâm sẽ giới thiệu sơ lược về Tam Tổ Trúc Lâm – ba vị Tổ của Thiền phái này là Trần Nhân Tông, Pháp Loa và Huyền Quang.

Phật Hoàng Trần Nhân Tông

Tượng Tam Tổ Trúc Lâm tại Phúc Lâm
Tượng Tam Tổ Trúc Lâm tại Phúc Lâm

Trần Nhân Tông, còn được biết đến với danh hiệu Phật hoàng, là một vị vua với đóng góp to lớn trong việc chống lại cuộc xâm lược của quân Nguyên vào đất nước Việt Nam. Sinh vào năm Mậu Ngọ năm 1258, Trần Nhân Tông là con trưởng của vị vua Thánh Tông và hoàng thái hậu Nguyên Thánh Thiên Cảm. Ông được mô tả trong Đại Việt sử ký toàn thư với những nét đặc biệt như tinh anh, thuần tuý đạo mạo và sắc thái như vàng. Sau khi giữ vị trí vương thần trong 14 năm, ông nhường ngôi cho con trai và bước vào tu hành theo Phật giáo.

Trong thời gian sống tu hành, Phật Hoàng Trần Nhân Tông tập trung vào việc hoằng pháp và giáo hóa dân chúng. Ông đã lập nhiều chùa chiền và thực hiện các hoạt động như giảng pháp và truyền bá tri thức Phật giáo. Năm 1299, ông lập chùa Hương Vân Đại Đầu Đà và sau đó đến chùa Phổ Minh ở Thiên Trường để tổ chức các buổi hội giảng pháp. Trần Nhân Tông được coi là Sơ tổ của Thiền phái Trúc Lâm, một dòng thiền đặc trưng của Phật giáo Việt Nam.

Ngoài việc hoạt động trong lĩnh vực tôn giáo, Trần Nhân Tông còn là một nhà văn có tài. Ông để lại nhiều tác phẩm thơ văn như Thiền lâm thiết chủy ngữ lục, Đại hương hải ấn thi tập, Hậu lục, Tăng-già toái sự, Cư trần lạc đạo phú, Thạch thất mỵ ngữ. Trong tác phẩm Cư trần lạc đạo phú, ông đã diễn đạt quan điểm về Tịnh độ và giáo dục nhân dân về triết lý sống đạo. Các bài thơ của ông thường mang đậm tinh thần Phật giáo và khuyến khích nhân dân sống đạo đức và tâm hồn thanh thản.

Trần Nhân Tông là một trong những nhà văn, nhà tu hành và vị vua có ảnh hưởng lớn trong lịch sử Việt Nam, với sự đóng góp không chỉ trong lĩnh vực chính trị mà còn trong việc tạo ra một nền văn hóa tinh thần phong phú và đa dạng.

Xem thêm  Sơn Son Thếp Vàng: Cách định giá vàng khi đặt hàng sơn son thếp vàng

Nhị Tổ Pháp Loa

Nhị tổ Pháp Loa, hay còn được biết đến với tên thật là Đồng Kiên Cương, là một nhà sư Phật giáo có ảnh hưởng lớn trong lịch sử Việt Nam. Ông sinh vào năm 1284 tại làng Cửu La, phủ Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Trước khi sinh ra ông, mẹ của ông đã sinh liền tám người con gái, khiến bà cảm thấy rất chán ngán. Do đó, khi mang thai ông, bà đã cố ý uống thuốc phá thai nhưng không thành công. Khi ông sinh ra, bà vui mừng và đặt tên cho ông là Kiên Cương.

Kiên Cương từ nhỏ đã có tính thiên tư dĩnh ngộ, không bao giờ nói lời ác và không thích ăn thịt cá. Năm 1304, khi Phật hoàng Trần Nhân Tông đang dạo chơi và truyền bá đạo Phật, Pháp Loa đã đến xin xuất gia. Lúc này, ông đã 21 tuổi. Phật hoàng thấy ông có vẻ thông minh và nhân từ, và đã đặt tên cho ông là Thiện Lai. Sau đó, Thiện Lai quay trở về liêu Kỳ Lân ở Linh Sơn để nhận lễ thế phát và thọ giới Sa-di.

Theo bản ghi của Tam Tổ thực lục, một ngày khi về từ viếng Hòa thượng Tính Giác, Thiện Lai gặp Phật hoàng đang đọc bài tụng “Thái dương ô kê”. Khi đó, ông tỉnh ngộ và Phật Hoàng biết rằng ông đã đạt được sự hiểu biết về đạo Phật. Từ đó, Phật hoàng đã dạy ông theo hầu bên mình. Sau đó, ông đã tỏ ra thông minh và thấu hiểu hơn khi tham gia các buổi trình bày. Tuy nhiên, ông đã gặp khó khăn khi tự mình giải quyết ba bài tụng quan trọng. Quay trở về, ông cảm thấy xao xuyến và thấy hoa đèn rơi. Kể từ đó, ông đã đạt được niềm tin cao trong tâm hồn và đem những gì mình đã tỏ ngộ trình lên Phật hoàng, người rất hài lòng.

Năm 1305, Thiện Lai nhận lễ thọ giới Tỳ-kheo và Bồ-tát tại liêu Kỳ Lân và được ban pháp hiệu là Pháp Loa. Tiếp theo, năm 1306 tại chùa Báo Ân ở Siêu Loại, ông được Phật hoàng cử làm sư giảng pháp. Năm 1307, Phật hoàng Trần Nhân Tông trao truyền y bát và tâm kệ cho Pháp Loa tại am Thiên Bảo. Năm 1308, Sơ tổ Trần Nhân Tông truyền thừa cho Pháp Loa và ông kế thừa trụ trì chùa Siêu Loại. Ông cũng nhận được Đại tạng viết bằng máu và ngoại điển từ Sơ tổ. Năm 1308, Sơ tổ viên tịch và Pháp Loa viết niêm tụng cho quyển Thạch Thất mỵ ngữ, một tác phẩm của Sơ tổ khi còn sống tại Thạch Thất.

Năm 1310, vua Trần Anh Tông ban chiếu, cứ ba năm độ Tăng một lần, ban ruộng đất cho nông phu để cung cấp lương thực cho các chùa. Pháp Loa ngày đêm hành trì tu tập, lễ bái, tụng kinh, và giảng kinh. Năm 1311, ông phụng chiếu khắc bản Đại tạng kinh. Trong khi đó, ông thâu nhận ngài Huyền Quang làm đệ tử. Năm 1312, vua Trần Anh Tông mời Tổ vào chùa Tư Phúc để giảng Đại tuệ ngữ lục. Năm 1313, Pháp Loa đến chùa Vĩnh Nghiêm ở Bắc Giang và quy định các chức vụ của Tăng sĩ, từ đó mới có sổ bộ dành cho chư Tăng Ni. Năm 1314, tại chùa Siêu Loại, ông cho đúc ba tượng Phật cao 17m, xây điện Phật, gác kinh và nhà Tăng. Năm 1316, ông truyền Bồ-tát giới cho Trần Anh Tông khi Anh Tông đang làm Thái thượng hoàng. Năm 1317, ông đem y của Điều ngự và viết bài tâm kệ trao cho đệ Tam tổ của Thiền phái Trúc Lâm Huyền Quang. Năm 1327, ông đúc tượng Di Lặc và Thánh tăng tại viện Quỳnh Lâm. Cuối cùng, ngày 3 tháng 3 năm 1330, Pháp Loa viên tịch. Trước khi ra đi, ông để lại một bài kệ về việc viện tịch của mình, thể hiện sự nhẫn nhịn và bình tĩnh trước cái chết.

Xem thêm  Bát Bửu là gì? Có ý nghĩa như thế nào?

Pháp Loa đã xây dựng nhiều chùa tháp và kiến tạo hàng ngàn tượng Phật, đồng thời in Đại tạng kinh và truyền bá Phật pháp. Công trình văn học của ông cũng rất phong phú và đa dạng, bao gồm Đoạn sách lục, Kim cương đạo tràng Đà-la-ni kinh, Tham thiền chỉ yếu, Bát-nhã Tâm kinh khoa, Tán Pháp hoa kinh khoa số, và nhiều bài kệ khác.

Tượng Tam Tổ Trúc Lâm tại Phúc Lâm Sơn Đồng

Xem chi tiết mẫu Tượng Tam Tổ Trúc Lâm trên

Tam Tổ Huyền Quang

Tam tổ Huyền Quang, hay còn được biết đến với tên thật là Lý Đạo Tái, là một nhà sư Phật giáo nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam. Ông sinh vào năm 1254 tại làng Vạn Tải, nằm ở hạ lưu sông Bắc Giang, hiện thuộc xã Thái Bảo, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh. Cha ông là Tuệ Tổ, một quan nhà Lý, và mẹ là Lê Thị. Khi ông sinh ra, có nhiều hiện tượng kỳ lạ xảy ra, được ghi nhận trong thực lục của tổ gia. Ông được đặt tên là Đạo Tái, nhưng sau này được gọi là Huyền Quang.

Năm 1274, Đạo Tái đỗ khoa thi Hương, và năm sau đó đỗ khoa thi Hội. Sau đó, ông được bổ nhiệm vào chức quan Hàn lâm, nơi ông đảm nhận công việc văn thư và tiếp đón sứ giả từ phương Bắc. Dù được đề cử hôn nhân với công chúa Liễu Nữ, nhưng ông từ chối vì ông đã có mong muốn xuất gia và tu hành từ lâu. Cuối cùng, sau khi nghe Phật hoàng Trần Anh Tông và Thiền sư Pháp Loa giảng kinh tại chùa Vĩnh Nghiêm, ông đề xuất rằng cuộc sống tu hành là hạnh phúc cao cả nhất. Ông từ chức và được vua chấp thuận xuất gia. Năm 1305, ông nhận pháp hiệu là Huyền Quang và bắt đầu cuộc hành trình của mình trong tu hành.

Huyền Quang được biết đến với sự thông thái và hiểu biết sâu sắc về Phật pháp. Ông trụ trì chùa Vân Yên ở núi Yên Tử, nơi ông thu hút một lượng lớn các học trò. Ông cùng với Pháp Loa và Điều Ngự thường đi khắp nơi khuyến khích dân chúng tu tập và bỏ đi các ác hạnh. Huyền Quang cũng viết nhiều tác phẩm văn học như Chư phẩm kinh, Công văn tập, và nhiều tác phẩm khác. Điều Ngự đã ca ngợi: “Mọi sách mà Huyền Quang soạn biên đều không thể thêm hoặc bớt đi một chữ nào”.

Sau khi Điều Ngự mất vào năm 1308, Huyền Quang tiếp tục theo hầu Thiền sư Pháp Loa. Ông thăm vua Trần Anh Tông tại kinh thành và sau đó giảng kinh tại chùa Báo Ân. Ông cũng lập một ngôi chùa mang tên chùa Đại Bi trong quê hương của mình và trở về trụ trì chùa Vân Yên. Tuy nhiên, ông đã phải đối mặt với một thử thách khó khăn khi bị dụ dỗ bởi Thị Bích, nhưng ông đã vượt qua thử thách này với lòng tin và sự kiên nhẫn. Sau đó, ông tiếp tục trụ trì ở Thanh Mai Sơn và sau đó là Côn Sơn, nơi ông tiếp tục công việc giáo hóa và truyền bá Phật pháp. Cuối cùng, vào ngày 23 tháng Giêng năm Giáp Tuất (1334), Huyền Quang viên tịch tại Côn Sơn, ở tuổi 80.

Xem thêm  Top 3 tượng Quan Hoàng độc đáo và ý nghĩa tại Sơn Đồng

Tác phẩm của Huyền Quang bao gồm Ngọc tiên tập, Công văn tập, Chư phẩm kinh, Phổ tuệ ngữ lục, và nhiều tác phẩm khác. Ông đã để lại một di sản văn hóa và tâm linh lớn lao trong lịch sử Phật giáo Việt Nam.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

0967978951
icons8-exercise-96 chat-active-icon